Hoa đại ? Bông hoa thơm đẹp mắt và loài cây làm thuốc

Hoa đại ? Cứ xem qua ảnh của các nhà vườn đã thấy muốn trồng cả một vườn: những phiến lá bầu bầu thon dài, xanh như bôi mỡ; những chùm hoa trắng cánh dày nở nang, giữa có tỏa vàng rắc phấn. Hoa đại thơm nữa chứ, “và cả làm thuốc nữa cơ!” – một người reo lên, cộng điểm cho loài cây gần như hội tụ mọi đức tính. Thế nhưng cuối cùng cái cây hoàn hảo ấy bị gạt ra ngoài. Lý do không nên trồng cũng mạnh ngang với lý do nên trồng.

Đại, hay sứ, hay champa, là thứ hoa mà người Việt ta quá quen và người Lào lại càng quen hơn nữa vì đó là quốc hoa Lào.

Thế hệ những người sinh những năm 1960, 1970 hẳn đều biết bài hát: “Hoa đẹp champa đã bao đêm ngày, hoa đây người đấy. Hoa vẫn ngạt ngào thơm ngát mùi hương tháng năm còn vương…”.

Tìm hiểu vì sao nên trồng và không nên trồng loài hoa này, “tiện” nhất có lẽ là vào chính trang của Hàng không Lào – Lao Airlines – với những chiếc máy bay có vẽ bông hoa đại trắng nhụy vàng lá xanh hiền hậu.

Hoa đại

Đặc điểm của cây Đại

Cây Đại (Plumeria rubra L. var. acutifolia (Poir.) Bailey) còn được gọi với cái tên quen thuộc là cây Sứ, thuộc họ Trúc đào. Nó thuộc loại cây nhỡ, cao khoảng 2 – 4m, thân tròn mập, phân nhánh đa dạng, xù xì. Thân mềm rạch có mủ chảy ra, dễ gãy. Vỏ cây màu trắng xám có sẹo lá để lại. Bộ rễ của cây phình to, gốc lớn.

Lá cây to, mọc so le sít nhau, thường tập trung ở đầu cành. Phiến lá dày to, hình mũi mác, gốc hẹp lại và đầu nhọn, mép nguyên, mặt trên bóng. Gân lá lông chim, gân giữa nổi rõ. Lúc lá rụng để lại sẹo trên cành. Vào tháng 11, cành nhánh trơ lá vì bị rụng hết đi (nên người ta còn gọi là Sứ cùi).

Hoa Đại mọc thành cụm trên một cuống chung dài khoảng 30 – 50cm ở đầu cành. Hoa có màu trắng ở mép, vàng ở mặt trong cùng với nhị dính trên ống tràng (còn có những giống Đại ra hoa màu hồng đến đỏ cũng thường được trồng). Cánh hoa dày mập, dạng phễu, rất thơm. Thường hoa có 5 cánh, nhưng cũng có những trường hợp 6, 7 cánh. Hoa thường mọc vào mùa xuân đến hè.

 Nguồn gốc, phân bố

Cây Đại có nguồn gốc từ châu Mỹ, là loại cây ưa đất nắng khô, rất sợ úng. Do đặc điểm hoa thơm, đẹp và trồng được lâu năm, nó trở nên phổ biến khắp nơi trên thế giới, thậm chí trở thành quốc hoa của Lào và Nicaragua.

Tại Việt Nam, cây thường được trồng nhiều trong các sân đình chùa, miếu mạo, lăng tẩm. Có lẽ vì theo nhà Phật thì đây là một loài cây thiêng trong hệ cây thiên mệnh (nghĩa là sinh khí, linh hồn vũ trụ, trời đất).

3. Bộ phận dùng, thu hái, chế biến, bảo quản

3.1. Bộ phận dùng của cây Đại

Gần như toàn cây từ vỏ thân, vỏ rễ đến hoa, lá, nhựa, tất cả đều có thể dùng làm thuốc.

3.2. Thu hái, chế biến, bảo quản

Hoa: người ta thu hái hoa đại vào lúc hoa mới nở trong tầm từ tháng 5 đến tháng 11. Hoa hái về đem phơi trong bóng râm hoặc sấy nhẹ ở 40 – 500C cho đến khi khô.

Vỏ thân và rễ: lấy ở những cây già. Tách từng mảnh nhỏ, phơi hoặc sấy nhẹ đến khô.

Lá và nhựa: có thể lấy quanh năm.

Bảo quản những dược liệu này nơi khô ráo, tránh ẩm mốc, giập nát, tránh nơi ẩm ướt, tránh ánh nắng trực tiếp làm giảm chất lượng thuốc.

4. Thành phần hóa học trong cây Đại

Theo nghiên cứu, người ta thấy trong vỏ thân có 1 glucosid gọi là agoniadin, ít tan trong nước, trong rượu, ete, sulfur carbon. Tan được trong acid nitric và acid sulfuric.

Nhựa cây chứa một acid gọi là acid plumeric, tan trong nước sôi, rượu, ete, chảy và bị phân tích ở nhiệt độ 1300C.

Trong hoa người ta thấy có một chất kháng sinh là fulvoplumerin và còn có một tinh dầu mùi thơm mát.

Rễ, lá và vỏ chứa một chất đắng là plumeric. Đó là một chất bột màu trắng, có tinh thể, không mùi, vị đắng, tan trong nước, trong cồn. Chất này không có trong hoa.

5. Tác dụng dược lý của cây Đại

Người ta nghiên cứu thấy chất kháng sinh fulvoplumerin có tác dụng ức chế sự lớn lên của Mycobacterium tuberculosis.

Thí nghiệm trên thỏ và chó cho thấy hoa Đại có tác dụng hạ huyết áp. Hoa khô có tác dụng mạnh hơn hoa tươi. Tác dụng hạ huyết áp xuất hiện nhanh và tương đối bền vững. Đặc biệt nó không làm giãn mạch.

6. Công dụng của cây Đại

Theo Y học cổ truyền, người ta thấy rằng hoa của cây Đại có tác dụng thanh nhiệt, hòa vị, nhuận tràng, bổ phổi. Thường dùng để chữa ho, phổi yếu có đờm, táo bón, viêm ruột cấp hoặc đi lỵ có máu mủ, phù thũng, bí tiểu tiện. Lưu ý dược liệu này không dùng cho người suy nhược toàn thân, đang bị tiêu chảy và phụ nữ có thai.

Vỏ thân có thể thanh nhiệt, tẩy xổ, tiêu thủy thũng, sát trùng. Được dùng để chữa phù thũng, tiểu tiện ít hoặc táo bón lâu ngày, viêm chân răng.

Nhựa cây ngoài những tác dụng như vỏ, người ta còn dùng để chữa chai chân, sưng tấy, mụn nhọt.

Lá cây chữa bong gân, sai khớp, mụn nhọt.

7. Cách sử dụng các dược liệu trên cây Đại

Đối với hoa: thường dùng dạng thuốc sắc, liều 12 – 20gr.

Vỏ cây: liều 4 – 8gr để nhuận tràng, 8 – 20gr để tẩy xổ. Hoặc có thể dùng 12 – 30gr ngâm rượu ngậm chữa viêm chân răng.

Nhựa cây: thường dùng bôi vào để trị các vết ghẻ lở, viêm tấy.

Lá cây: Giã nát đắp vào, hoặc nấu thành cao đắp vào vết thương.

Hoa đại

8. Một số bài thuốc từ cây Đại

8.1. Bài thuốc chữa nhuận tràng

Lấy 4-5gr vỏ cây thái mỏng, sao thơm, sắc với 200ml nước, chia làm 3 lần uống trong ngày.

Còn nếu muốn có tác dụng tẩy xổ để chữa táo bón thì dùng liều lớn hơn, khoảng 10 – 20gr.

8.2. Bài thuốc để hạ huyết áp

Hoa đại khô thái nhỏ 100gr, hoa cúc vàng khô thái nhỏ 50gr, Hoa hòe (sao vàng) 50gr, Quyết minh tử (sao đen) 50gr. Tất cả tán thành bột, mỗi ngày dùng 10 – 20gr hãm trà.

8.3. Bài thuốc chữa sai khớp, bong gân

Dùng một nắm lá Đại giã nát, đắp vào vùng bị tổn thương đau nhức.

8.4. Bài thuốc chữa đau răng từ cây Đại

Dùng 10 – 20gr vỏ rễ ngâm trong 200ml rượu trắng, ngày súc miệng 2 lần, tuyệt đối không được nuốt.

Trên đây là thông tin về Hoa đại do Làng hoa Tây Tựu đang cung cấp cho các bạn. Hy vọng qua nội dung trên sẽ có ích cho các bạn. Nếu bạn vẫn còn muốn biết thêm về các loài hoa thì cùng đón xem các bài viết tiếp theo của chúng tớ nhé!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *